MỘT NỀN Y HỌC NHÂN VĂN (anthropological medicine)
Khiếm khuyết của y học Hiện đại
Không ai có thể phủ nhận được rằng y học hiện đại ngày nay có những bước tiến rất dài và những thành tựu to lớn giúp con người chống lại bệnh tật, kéo dài tuổi thọ nhờ những phát minh về hóa dược, máy móc tinh xảo… Ngành y học còn tiến xa hơn làm ta chóng mặt: Đó là các nhà khoa học đã lập được bản đồ gen về người, nghiên cứu gen di truyền, tạo ra những bộ phận có thể nối ghép thay thế các bộ phận của cơ thể; các tác giả của phương pháp “Nhân bản vô tính” còn tuyên bố có thể làm sinh sản vô tính ở con người. Sau lời tuyên bố đó là sự lên án kịch liệt của cả thế giới đối với họ, vì cho rằng con người được tạo ra như vậy sẽ trở thành người máy “rô bốt” mất hết nhân tính. Ngành y sinh học tuy có cứu chữa được một số bệnh hiểm nghèo nhưng chỉ dừng lại ở “Phần ngọn” của bệnh tật. Rõ ràng về mặt trái của y học hiện đại và y sinh học đã tác rời con người khỏi tự nhiên, làm mất đi tính thiên nhiên của ocn người, kèm theo những hậu quả nguy hại lâu dài như sự rối loạn về tâm sinh lý, làm suy nhược (đôi khi làm mất) chức năng miễn nhiễm của cơ thể.
– Vậy có nền y học nào có thể bù đắp được chỗ khiếm khuyết của y học hiện đại không? Dưới đây là câu trả lời cho câu hỏi trên:
Sinh thời Bs. Nguyễn Khắc Viện trong bài viết nhan đề “Tiến tới một nền y học nhân văn” đăng trên tuổi trẻ Chủ nhật có nêu một câu chuyện như sau: “Một vị tổng giám đốc cảm thấy đau nhức ở ngực, bác sĩ cho xét nghiệm đủ thứ, không phát hiện bất kỳ dấu hiệu nào bất thường, có bệnh hay không có bệnh? Tìm xem có máy móc nào, thuốc men nào mới nhất hỗ trợ cho việc chẩn đoán và chữa trị không?… Theo hướng công nghệ thì không thấy gì bất thường, nhưng theo hướng nhân văn sẽ “moi” ra nhiều sự kiện. Vị này giữ chức vụ quan trọng nhưng thiếu năng lực, làm ăn bê bối, có nguy cơ bị cách chức, đang thất thế, có bà vợ đến tuổi hồi xuân bỏ theo người đàn ông khác, có đứa con hư hỏng bỏ nhà đi… Tình cảm của ông bị tổn thương sâu sắc, nhưng mối “thất tình” đè nặng lên tâm tư. Có máy móc nào giúp cho phát hiện những mối như thế, thất tình như vậy không? Cho đến nay câu trả lời của tất cả những ai đã nghiên cứu vấn đề – là Không”. .
Trong khi đó Bs. Jean Bonhomme khi trả lời phỏng vấn tờ Paris Match có kể lại câu chuyện: “Một bà già bị rối loạn tiêu hóa đến thăm một bác sĩ. Bác sĩ gửi ngay đến một trung tâm chuyên khoa để làm xét nghiệm. Vài ngày sau, bệnh nhân đã bớt, nhưng mọi việc đã chương trình hóa, nên không thể dừng lại được. Bà già tiếp tục được làm xét nghiệm ngày càng phức tạp vì xét nghiệm đơn giản dã không tìm ra bệnh. Thế là siêu âm, nội soi, sinh thiết, chụp cắt lớp, chụp cản quang động mạch treo… và sau hơn một tháng đi hết bệnh viện này đến trung tâm khác nằm chờ trên những băng lạnh lẽo, đẩy từ hành lang này sang hành lang khác, người bệnh hình như khủng hoảng tâm lý và sợ hãi, vì lo âu, để cuối cùng các bác sĩ hội chẩn xác định không có bệnh gì cả! Người bệnh đã mát nhiều toàn sau đó mới hoàn hồn và bảo hiểm đã phải trả một chi phí là 35.000 Franc”!
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy phần lớn bệnh tật con người do rối loạn tân sinh lý, chỉ có số ít do vi khuẩn và vi rút. Ở các nước phát triển – nơi tạo ra cộng nghệ sinh học cao có khoảng hai phần ba trường hợp bệnh tật không giải quyết được bằng những máy móc và thuốc men hiện đại nhất. “Có thể nói rừng ngày nay con người đã trở thành nô lệ của thuốc men và các dụng cụ y học mà chính con người là tác giả. Rõ ràng nền y học hiện đại, nhất là phương Tây, ngày càng tách rời con người khỏi tự nhiên”.
Đây là khiếm khuyết của nền y học hiện đại.
Thực tế đời sống con người từ thời Kippocrate đến nay cho thấy có nhiều phương pháp để giải quyết bệnh tật và sức khỏe cho con người, nhưng chưa có phương pháp chữa bệnh nào chiếm độc quyền. Bởi lẽ cùng một loại bệnh giống nhau, nhưng ở người này chữa bằng thuốc, người kia day bấm huyệt hoặc châm cứu mới phù hợp, còn người thứ hai ba phải dùng đến liệu pháp tâm lý: “miễn dịch học tâm lý” (Psychoneuro – immunologie)… Trong lịch sử y học mình, loài người có những phương pháp để phòng và trị bệnh theo hướng tự nhiên mà ngày nay y học hiện đại gọi là “Y học cổ truyền” hay “y học bổ sung”: Gọi chung là Y học không chính thống ( Alternative Médecine). Tuy nhiên các ngành y học kể trên và y học hiện đại chưa giải đáp được những vấn đề đặt ra cho sứ mệnh cao quý của y học là làm “thăng hoc” con người về sức khỏe và trí tuệ. Do đó con người cần phải có những nền y học khác như Y học phân văn hay còn gọi là “y học văn hóa – triết học” bổ sung và góp phần giải đáp định nghĩa về sức khỏe do tổ chức y tế thế giới (WHO) nêu ra: “Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh tật”.
Hãy lấy một vài ví dụ sau đây:
1/ Một cô gái đến tuổi dậy thì bị đau bụng kinh tưởng như đầu vỡ tung ra. Thế rồi cô được hướng dẫn day ấn một vài Sinh huyệt Diện Chẩn (điểm báo bệnh trên bờ môi trên) – Cơn đau dịu dần và tiêu biến sau vài lần tác động.
2/ Một công nhân đến tuổi về hưu bị bệnh “Mất ngủ”. Ông được chuyên viên y tế giải thích, cơ thể ông đã đến thời kỳ “đồng hồ sinh học” điều chỉnh lại “thời gian” ngủ chứ không phải bị bệnh mất ngủ. Tâm lý mang bệnh đè nặng trong đầu được tháo gỡ, ông cảm thấy cơ thể thoải mai vô cùng.
3/ Vị giám đốc công tay nọ bị bệnh đường ruột mãn tính – Triệu chứng cho thấy bụng luôn bị lạnh, đi cầu phân lỏng khiến cơ thể luôn mệt mỏi. Được chuyên gia về “Ẩm thực dưỡng sinh” hướng dẫn lại về ăn uống, sinh hoạt, ông bỏ nước đá, nước cam, nước chanh – những thứ nước uống mang tính âm (lạnh) được gọi là thực đơn hàng ngày trước đây, thay vào là các thứ nước uống mang tính dương (nóng) kèm thêm luyện khí công. Ít lâu sau, căn bệnh của ông được khắc phục, sức khỏe tốt hẳn lên.
4/ Một nhà khoa học về hưu bị các chứng bệnh mạn tính như mê sảng trong giấc ngủ, viêm đại tràng. Nhờ luyện khí công và tự day bấm một vài Sinh huyệt trên cơ thể, cơn mê sảng tiêu biến, chứng viêm đại tràng cùng bị đẩy lui, sức khỏe cải thiện rõ rệt, sức làm việc tăng gấp hai ba lần.
Điều đáng chú ý ở đây là cả 4 trường hợp bệnh xảy ra ở những dạng khác nhau của những cơ thể khác nhau được người bệnh tự chữa: chữa bằng tâm lý, ăn uống, luyện khí công và day bấm những điểm phản xạ ( không phải dùng thuốc) cũng đem lại kết quả cao. Cách giải quyết bệnh tật như vậy chính là y học Nhân văn.
Ở trung quốc người ta đã tổ chức ra các phòng xoa bóp để đón các bệnh nhân từ khoa nội, phẫu thuật, sản và khoa nhi của bệnh viện đến điều trị. Ngược lại ở Mỹ có hẳn một trường đào tạo các bác sĩ chuyên môn nắn và chỉnh cột sống lưng chữa bệnh (CHIROPRACTIC). Tại khu điều dưỡng ở thủ đô Ba – Cu của nước cộng hòa A-déc-bai-dăng, các nhà chuyên môn đã dùng 15 loại hoa có mùi hương để chữa thành công các bệnh về tim mạch, hen xuyễn, huyết áp cao, suy nhược thần kinh, mất ngủ. Còn lại khách sạn Orienta ở Băng Cốc (Thái Lan), người ta dùng liệu pháp tắm nước vòi sen, nước cốt dưa chuột, cà rốt, bùn, án ma pháp và xoa bóp để chữa bệnh cho khách du lịch.
Vì sao lại có kết quả như vậy? Vì y học Nhân văn quan niệm con người là “Tổng hợp của mọi quan hệ xã hội” (Marx), đồng thời một bộ máy sinh học “động” (dinamique) luôn biến dịch. Mặt khác y học Nhân văn bao giờ cũng căn cứ vào chữ “tùy” để đưa ra nhiều liệu pháp điều trị như: Tâm lý (niềm tin), bấm huyệt (day bấm các điểm phản xạ), xoa bóp, khí công, Thiền, yoga, trường sinh học, ăn uống, âm nhạc, hội họa kể cả tiếu liệu pháp (tiếng cười) và mỹ liệu pháp (beauty therapy)… cho phù hợp với từng cơ thể của từng loại bệnh khá nhau. Trong khi đó y học hiện đại coi cơ thể là bộ máy sinh học “tĩnh” (Statique) chỉ đưa ra phương pháp điều trị theo hướng công nghệ bằng thuốc men và máy móc tinh xảo.
Sự khác biệt giữa y học nhân văn và y học hiện đại
Từ những dẫn chứng và quan niêm trên cho thấy sự xâm nhập vào các bộ môn, Tâm lý, Xã hội, Văn hóa, Triết học… vào y học hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Vì thế ta có thể đưa ra vài nhận định khác biệt giữa y học Nhân Văn và y học Hiện đại dưới đây:
1/ Y học Nhân văn chủ trương đào tạo con người hiểu biết y học để có thể làm chủ sức khỏe và môi trường ngày càng khoa học và có kỹ thuật giúp con người sinh hoạt và ăn uống khoa học, làm việc đúng khả năng; biết thư dãn thể chất và thư dãn trí tuệ; biết sống hài hòa và cân bằng giữa bản thân và môi trường, với thiên nhiên, với cộng đồng và xã hội…
2/ Y học Nhân văn chủ trương giữa bệnh không dùng thuốc, biến “bệnh nhân thành thày thuốc” (Nói như tổ chức y tế thế giới với mỗi người phải là thày thuốc của chính minh). Trong khi nền y học hiện đại hướng mục đích vào việc đào tạo thật nhiều thày thuốc kê đơn với số lượng lớn thuốc men và máy móc tinh xảo.
3/ Y học Nhân văn kéo danh giới ngăn cách thày thuốc và bệnh nhân ngày một gần lại, tạo cho họ một quan niệm hòa đồng, biết tự chủ trong lúc điều trị bệnh tật.
4/ Về xã hội: y học nhân văn mang tính phổ cập cao, ít tốn kém, mọi tầng lớp trong xã hội, mọi trình độ văn hóa trong cộng đồng đều có thể tham gia và góp phần vào chương trình “Chăm sóc sức khỏe ban đầu”| tại gia đình và xã hội do WHO đề ra.
Nền y học làm chứa ý tưởng các giá trị nhân văn, trong đó có thể coi Đức – Thích – Ca như là một nhà khoa học tiên tri (Futurologiste) và y học phương Tây với bàn đến các bệnh “căn nguyên tâm thể” (maladies psycho-somatiques) – Nền y học ấy không thể thiếu được trong sự sinh tồn của con người, bởi một lẽ khác nữa nền y học hiện đại như ta vừa khảo sát không giải đáp được ý nghĩa “sức khỏe” của WHO về ba mặt của cuộc sống là” SẢNG KHOÁI VỀ THỂ CHẤT, TINH THẦN VÀ XÃ HỘI. Điều này cũng không có gì làm ta ngạc nhiên khi khoa học hiện đại Phương Tây (trong đó có y học) đang hướng về phương Đông và khám phá ra những bí ẩn về nền văn minh phương Đông – Trong đó thừa nhận “Thiền” là phương pháp “Có tác dụng mạnh mẽ nhất lên cả trí não và cơ thể.
Y học nhân văn là gì?
Đến đây ta có thể tạm thời trả lời câu hỏi đặt ra ở trên:
– Y học Nhân văn là nền y học hướng về tự nhiên, không làm mất tự nhiên – Một nền y học hướng cho con người đến chỗ biết tự chủ bản thân mình. Nói cách khác đây là nền y học vừa nhân bản tự nhiên – Một nền y học tính đến cả con người, tự nhiên và xã hội, trong đó có nhiều ngành khoa học mang tính xã hội, văn hóa, triết học… cùng tham gia. Một nền y học CHÍNH LÀ ĐỂ NÂNG CAO VÀ BỔ SUNG CHO NỀN Y HỌC HIỆN ĐẠI CHỨ KHÔNG PHẢI THAY THẾ NÓ nhằm đưa con người trở về cái bản thể vốn có để chống lại bệnh tật, làm thăng hoa cho chính bản thân mình. Đây chính là nhu cầu vươn tới sự hoàn thiện của con người và của lịch sử phát triển không ngừng của y học – Một nền y học đến một thời kỳ nào đó con người với sự thăng hoa về sức khỏe và trí tuệ sẽ nhận biết về cơ thể mình một cách tự nhiên, sẽ thừa nhận một cách tự nhiên những kết quả điều trị theo hướng tự nhiên, sẽ thừa nhận một cách tự nhiên những kết quả điều trị theo hướng tự nhiên mà không đòi hỏi chứng minh một cách máy móc và thiển cận. Nền y học Nhân văn được xác lập góp phần không nhỏ cùng các nền y học khác trong việc giải quyết hai phần ba số bệnh tật của con người mà thuốc men và máy móc tinh xảo chưa giải quyết được, đồng thời làm cho kho tàng y học nhân loại phong phú hơn, đa dạng hơn và hiệu quả hơn – Nền y học ấy cũng góp phần làm chiếc cầu giao lưu văn hóa giữa các dân tộc và các nền văn minh.
Diện Chẩn – Phản Chiếu Thần Kinh Đa Hệ (MULTYSYSTEMME DE RÉPRECTION) phương pháp chữa bệnh trên ĐỒ HÌNH của Việt Nam ra đời năm 1980 tác giả Gs.TSKH Bùi Quốc Châu là một trong những giải pháp được xem là tối ưu của nền y học Nhân văn bởi hai phần ba chứng bệnh của con người có thể giải quyết được bằng phương pháp y học này không phải dùng đến hóa dược.
HOÀNG CHU
Bài đăng trên tuần báo TIN TỨC số Xuân 2002
Và tạp chí “Thế giới trong ta” số 278/2007