QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC DIỆN CHẨN (CHÌA KHÓA ĐỂ GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN CƠ THỂ CON NGƯỜI)
LỊCH SỬ RA ĐỜI PHÁC ĐỒ DIỆN CHẨN QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC
Khi còn làm trợ lý DIỆN CHẨN cho nhà nghiên cứu y học dân tộc VN Bùi Quốc Châu, tôi vẫn còn nằm trong “ Bàn tay phật ” như bao nhiêu người khác là học trò của ông. Nghĩa là từ suy nghĩ đến việc điều trị cho bệnh nhân; từ phát ngôn trong các buổi sinh hoạt câu lạc bộ đến việc trả lời các câu hỏi của hội viên ( kể cả viết bà đăng báo) tôi đều làm theo hướng dẫn của ông (!).
Có những bệnh nhân và học viên hỏi ông phương pháp Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp (DC – ĐKLP) có chữa hết bệnh không? Ông không ngần ngại trả lời phương pháp này “chữa chứng chứ không phải khỏi bệnh ”. Tuy nhiên không loại trừ có những trường hợp bệnh khó cũng chữa khỏi. Nói chính xác phương pháp này chữa giảm đau không có thứ thuốc nào so sánh kịp giống như uống thuốc – hết thuốc bệnh lại tái phát chứ chưa khẳng định được chắc chắn là chữa khỏi bệnh
*Đặt mua sách Thần Kinh Đa Hệ taapj1,2,3 của Thầy Hoàng Chu
Năm 1999 không còn làm trợ lý cho ông nữa, tôi trở về độc lập nghiên cứu, chữa bệnh, mở lớp hướng dẫn phòng và chữa bệnh cho bệnh nhân. Tôi tìm gặp một số người đã học qua các khóa Diện Chẩn do ông và các trợ lý của ông hướng dẫn đến các lớp tôi mở để giúp họ thêm kinh nghiệm, nhưng ai cũng từ chối với lý do phương pháp chữa không hết bệnh (!).
Nghĩ lại chuyện cũ, một lần có bệnh nhân ngoài 60 tuổi mời tôi đến nhà chữa cảm lạnh. Người bà luôn ớn lạnh, sợ nước, sợ gió – đặc biệt vùng lưng lúc nào cũng ướt và lạnh như nước đá. Chữa cho bà thật trần ai. Cả buổi sáng hết cả điếu ngải cứu, vùng lưng và trong người vẫn không hết ớn lạnh chứ đâu đã nghĩ tới 1 phác đồ có thể quân bình được năng lượng sinh học trong cơ thể và chữa thành công các bệnh hẹp và hở van tim, dính ruột, sa tử cung phì đại tuyến tiền liệt không phải mổ và các bệnh khó khác như suy thận cấp, đau nửa đầu ( Migraine ), hen suyễn, tiêu chảy cấp…như bây giờ.
Khi có dịp trả lời báo chí, nhà nghiên cứu y học dân tộc Bùi Quốc Châu vẫn thận trọng cho rằng phương pháp Diện Chẩn của ông chỉ chữa chứng chứ không chữa hết bệnh buộc tôi phải tìm nguyên nhân câu trả lời của ông…
Với tôi 19 năm làm trợ lý và chữa bệnh cũng chưa kết luận chữa khỏi một bệnh cụ thể nào theo đúng nghĩa (!).
Phải chăng Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp còn thiếu một cái gì đó trong điều trị. Muốn vậy tôi phải tìm cách thoát khỏi “ Bàn tay Phật ”.
Đầu năm 2002, cơ duyên đã đến. Tôi may mắn được chữa bệnh cho một hiền sư. Trong câu chuyện tu Thiền, thiền sư kể cho tôi nghe việc ông cứu một cô gái bị ngất xỉu giữa đường bằng cách đặt bàn tay vào vùng lưng cô gái. Vùng đó được tôi ký hiệu chữ “ E ” trên cột sống trong phác đồ Quân Bình Năng Lượng Sinh Học ( QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC ), khoảng 1 phút sau cô gái tỉnh dậy, đứng lên nói chuyện và cảm ơn thiền sư. Câu chuyện chỉ như vậy. Chia tay ông, nhớ lại khi đọc sách Thiền có một công án nổi tiếng “ Ngón tay chỉ Trăng ” của Đức Thích Ca đại ý rằng: Nếu chấp nhận ngón tay là mặt trăng thì không thấy mặt trăng thật. Tôi liên tưởng tới bàn tay Thiền sư cứu cô gái. Nếu “ chấp ” bàn tay thiền sư thì cũng chỉ biết xác thân thiền sư có một năng lượng siêu nhiên hoặc thiền sư chỉ cầu nối đưa dòng điện vũ trụ vào cơ thể làm cho con người tỉnh lại như cô gái trong câu chuyện, rồi bỏ qua như bao chuyện thần kỳ khác tôi được nghe trong cuộc sống như thật. Thiền sư không phải là thay chữa bệnh, bàn tay chỉ là phương tiện chuyển tải năng lượng, còn điểm “ vô hình ” trên lưng cô gái là nơi tiếp nhận năng lượng mới làm tôi quan tâm.
Nguồn gốc phác đồ quân bình năng lượng Diện Chẩn
Phải chăng thiền sư đã cho tôi một “ công án ” về thiền để tôi chứng nghiệm? Tôi định tâm và đi tìm điểm vô hình trong công án thiền sư đã cho. Trên con đường tìm kiếm “ mặt trăng thật ”. tôi không gặp trở ngại nào ngoài việc mất thời gian tìm sách thiền, sách Kinh dịch, sách thần kinh…để nghiên cứu lập phác đồ rồi đem thực nghiệm trên lâm sàn để kiểm chứng. Mặt trăng thật giúp tôi định vị được 9 Sinh huyệt ( SH ) nằm ở cột sống, đầu và trán gồm 6 Luân xa ( Thiền ) + 3 Sinh huyệt 103 – 106 – 300 + – của DIỆN CHẨN – ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP. 9 Sinh huyệt này mấy năm đầu còn mang tên “Giải phóng năng lượng”. Tôi cảm thấy không ổn cộng với một số nhà nghiên cứu góp ý khiến tôi quyết định tìm cái tên khác cho hợp lý hơn. Tên đó rất hay và dễ ( Nói dễ bởi từ “ Quân bình ” sách triết học, khoa học…có điều tôi không chú ý đó thôi ). Cuối cùng tôi quyết định đổi tên cũ thành phác đồ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC. Tôi yên tâm coi phác đồ này là “ Chìa khóa ” của PCTKĐH. Là chìa khóa không chỉ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC trong cơ thể ( tiểu vũ trụ ) còn đưa phương pháp tiếp cận với phầm Tâm trí ( Tâm linh ) con người mà y học hiện đại ( Tây y ) và y học cổ truyền cố tình “ bỏ quên ”. Hơn 10 năm kể từ ngày phác đồ ra đời đến nay khi áp dụng vào điều trị, tôi vẫn chưa thấy hết được sự kỳ diệu của phá đồ với 7 chứcc năng(*). Chỉ cần 15 phút hơ nóng 9 Sinh huyệt ( Trong đó có có 6 SH là các Luân xa ) trong khoảng thời gian 7 ngày ( mỗi ngày 2 lần ), một người nằm liệt giường do suy nhược cơ thể và suy nhược thần kinh có thể đứng dậy đi lại không phải người khác trợ giúp. Nhiều bệnh nhân và học viên do tôi hướng dẫn áp dụng QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC và PCTKĐH vào chăm sóc sức khỏe cho gia đình và bạn bè cũng cho biết có gia đình cả năm không phải uống 1 viên thuốc, không phải đến bệnh viện như trước đây.
Trong nền y học hiện đại và y học cổ truyền chưa có phác đồ chữa bệnh nào chỉ 1 viên thuốc ( chỉ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC ) có thể làm được cả 2 chức năng: hưng phấn và ức chế ( Thăng và giáng ); tăng thân nhiệt và hạ thân nhiệt; diều chỉnh huyết áp cao và huyết áp thấp…như QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC. Vì vậy QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC không thể thiếu trong chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng(**).
Tháng 04/2014 – HOÀNG CHU
———-
(*) Xem giải mã phác đồ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC tập III và Tạp chí “ Thế giới trong ta ” số 287/2007
(**) Trên con đường nghiên cứu triết học kinh Phật để áp dụng vào Y học Nhân văn, vô thức còn giúp tôi lập được mô hình giữa tim mạch. Mô hình định vị chính xác hầu hết các thông số về cấu tạo quả tim như vị trí các van tim, van động mạch chủ, thất phải, thất trái, và các mạnh của tim… Khi áp dụng vào điều trị hẹp và hở van tim, van động mạch chủ, thiểu năng động mạch vành, động mạch chủ…cho kết quả cao.
———
QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC
Phác đồ Quân Bình Năng Lượng Sinh Học ( QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC ) gồm 9 Sinh Huyệt ( SH ) : X – A – E – C –F – H + 103 – 106 – 300.
– Số 9 là số tận cùng của số Dương ( Kinh Dịch) – Dương có ý nghĩa mạnh mẽ, tăng trưởng và hướng thượng.
– Vì sao gọi 9 Sinh Huyệt là phác dồ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC ?
Sách Kinh Dịch viết : “ Vạn vật lấy quân bình làm gốc ”. “ Quân Bình ” l “ Luật ” của tạo hóa; là quy luật của sinh tồn, phát triển và tiến hóa của vạn vật trong vũ trụ nhỏ “ Nhân thân tiểu thiên địa ”
– Vì sao gọi 9 Sinh Huyệt là phác dồ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC ?
Sách Kinh Dịch viết : “ Vạn vật lấy quân bình làm gốc ”. “ Quân Bình ” l “ Luật ” của tạo hóa; là quy luật của sinh tồn, phát triển và tiến hóa của vạn vật trong vũ trụ nhỏ “ Nhân thân tiểu thiên địa ” – phản chiếu vũ trụ. Năng lượng vũ trụ ( N L V T – Tiên thiên khí ) là sự hợp nhất của Âm Dương. Khi 9 Sinh huyệt của QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC được kích thích bằng sức sóng của lửa, lập tức dòng điện của năng lượng vũ trụ ( N L V T) không âm không dương mới đủ lực hóa giải sự mất quân bình N L S H trong cơ thể mà thôi )(1). Năng lượng sinh học của cơ thể là tri giác được ” Nhận biết bằng cảm giác “. ( Phật học ).
Trong trị liệu tâm linh có 3 cơ chế:
1/ Hiệu ứng THEREZA ( Hệ miễn nhiễm được kích thích )
2/ Tác dụng placebo (giả được chiếm trên 40% bệnh nhân )
3/ Khả năng tự chữa bệnh của cơ thể.
Khi cơ thể bị bệnh, Cơ Chế Tự Điều Chỉnh ( Auto – Resgulation ) kích thích hệ thần kinh đang bị tê liệt haowjc rối loạn bằng dòng điện của năng lượng vũ trụ đến một ” ngưỡng ” nhất định, lập tứ 3 cơ chế của ” Trị liệu tâm linh ” tức là năng lượng sinh học dự trữ trong cơ chế làm thay đổi ” môi trường ” nơi bệnh đang xảy ra khiến cho bệnh giảm hoặc tiêu biến.
Về y học có một số biện pháp có thể huy động N L S H dự trữ trong cơ thể như Khí công, Thiền, Yoga, Trường sinh học ( nhân diện )…Khí công, Thiền, Yoga… có khả năng huy động năng lượng sinh học dự trữ trong cơ thể rất cao, nhưng người bình thường rất khó thực hiện.
Phản chiếu thần kinh đa hệ ( DIỆN CHẨN mở rộng ) có phác đồ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC gồm 9 Sinh Huyệt, trong đó 6/9 Sinh Huyệt nằm ở cột sống lưng và đầu. Cột sống thẳng đứng giúp chúng cho cơ thể cân bằng tự nhiên. Ở tư thế tự nhiên, lực hút của trái đất ảnh hưởng không đáng kể lên cơ thể và cũng dễ dàng thoát khỏi sức hút của trái đất. Theo nguyên lý siêu nhiên cấu trúc bản thể con người ( Physical and physionlogical Structurer ) thì ĐẤT + NƯỚC + GIÓ + LỬA alf căn bản của cấu trúc do Cột Sống ” cột vũ trụ ” – tác động vào cột vũ trụ sẽ làm chuyển động cả ” tiểu vũ trụ ” ( con ngườ ) – tức là con người đã biết quay về với bản thể để giải mã bệnh tật của chính mình.
Dùng sức nóng của lửa(2) và xoay tròn(3) để tác động lên Sinh huyệt của QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC ( ở cột sống lưng, da đầu và vùng trán ) được xem là liệu pháp duy nhất quân bình được năng lượng sinh học trong cơ thể. Vì vậy QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC được coi là chìa khóa của PCTKĐH và làm thăng hoa sức khỏe con người.
7 chức năng của phác đồ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC:
1/ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC giúp cho phương pháp PCTKĐH không chỉ tiếp nhận được NLVT, còn đưa phương pháp tiếp cận với phần Tâm trí ( Tâm linh ( của con người mà y học hiện đại ( Tây y ) và y học cổ truyền cố tình ” bỏ quên ” bằng việc mở các Luân xa ( Thiền ).
2/ Mở Sinh Huyệt: Sinh huyệt là nơi tiếp nhận thông tin ( NLSH ) đầu tiên để Cơ chế tự điều chỉnh ( CCTĐC ) hoạt động. Thông thường các SH đều ở. Tuy nhiên SH đóng hay mở; tiếp nhận thông tin đến mức độ nào còn phù thuộc vào cơ địa ( nghiệp lực ) người bệnh.
3/ Điều hòa thân thiện (nóng quá “ngưỡng” thành mát và lạnh quá “ngưỡng” thành nóng).
Ví dụ: Sốt nóng ( 400C ) và sốt rét ( dưới 370C ) chỉ sử dụng phác đồ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC, thân nhiệt trở lại bình thường (370C) khong phải dùng 2 phác đồ “Thăng” và “Giáng” (Thăng và giáng cũng không hạ được thân nhiệt).
4/ Khai thông sự bế tắc của cơ thể do suy nhược cơ thể và suy nhược thần kinh.
a/ Suy nhược cơ thể: Cơ thể chỉ còn “Da bọc xương” dần dần được hồi phục. b/ Suy nhược thần kinh: Thần kinh hoang tưởng, mê sảng trong giấc ngủ, mộng du, ác mộng…sẽ tiêu biến.
5/ Du chứng của thuốc. Thuốc trong cơ thể gây nên tình trạng:
a/ Mất trí nhớ > Trí nhớ phục hồi.
b/ Cơ thể trương nước > Nước được đào thải.
6/ Điều chỉnh sự rối loạn các tuyến nội tiết và huyết áp.
Điều chỉnh sự tiết rối loạn khiến một số chứng bệnh phát sinh: Bệnh ngoài da, thân nhiệt, tiêu hóa, ức chế thần kinh…sẽ tiêu biến.
b/ 85% huyết áp cao không rõ nguyên nhân (theo Tây y) sẽ trở lại huyết áp bình thường không phải dùng thuốc.
7/ Thai giáo: người mẹ mang thai được QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC liên tục từ những ngày đầu đến khi sinh nở kết hợp với ăn uống khoa học và vận động đúng phương pháp, đứa trẻ sinh ra rất khỏe mạnh, ít đau yếu và thông minh, còn người mẹ sức khỏe trở lại bình thường sau 10 ngày.
Qua thực tiễn điều trị, Q B N LS H an toàn gần như tuyệt đối. Tuy nhiên cần nhấn mjanh dùng phác đồ QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC trước khi chữa bệnh cụ thể, bệnh nhân đã có cảm giác bệnh giảm tới 50%, nhận thông tin đến mức độ nào còn phụ thuộc vào cơ địa (nghiệp lực) người bệnh.
Sở dĩ Q B N L SH làm được các chức năng kể trên vì 9 Sinh huyệt đều có liên hệ đến Thần kinh, Luân xa (Thiền), một số quẻ chủ yếu (Kinh dịch), phản xạ thần kinh (Tây y). Vì vậy QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC được gọi là “Chìa khóa” của phương pháp bao giờ cũng được sử dụng trước khi chữa bệnh cụ thể.
A/ Về Thần Kinh: cả 9 Sinh huyệt: X – A – E – C nằm trên cột sống lưng (hệ thần kinh TW thứ II) + các SH: F – H – 103 -106 – 300 nằm ở đầu và trán (Thần kinh não bộ). 9 Sinh huyệt được kích thích bằng sức nóng của lửa, lập tức Cơ chế tự điều chỉnh của cơ thể được vận hành.
*SH.X (đốt sống cụt): giải phóng năng lượng, liên quan não, sinh dục, dạ dày…
* SH.A (Giao điển L5 + S1) tương ứng SH.53 – RỐN ( trung tâm năng lượng của đời sống con người ): mở ra những thần kinh trọng yếu của hệ thần kinh giao cảm; liên quan đến não, trực tràng…
* SH,.E (Đốt sống lưng số 9): bệnh thận, dị ứng, xơ cứng động mạnh, suy nhược…
*SH.C (Đốt sống cổ số 6): Tuyến giáp, túy hoạt dịch khớp vai, khuỷu tay…
*SH.F ( tiểu não ): Não được sử dụng trong trường hợp nghẽn mạnh máu.
* SH. H (Đỉnh đầu): môn vị và đám rối thần kinh ở tim.
B/ Về Thiền: 6/9 Sinh huyết là các Luân Xa:
Trong con người (Tiểu vũ trụ) cs 3 lực chính: Lực tri giác – lực biến dịch và lực tĩnh – 3 lực này được nhận biết rằng cảm giác (Phật học). Thuyết “Tam tài ” Thiên – Nhân – Địa (*) cho cách nhìn tổng hòa về vũ trụ với 3 lực trung tâm (Trong đó năng lực của xác thân là một phần của lực vũ trụ):
1/ Thiên: Thiên lực ( Spirituality – Sprititualpower )
2/ Nhân: Ái lực ( Charity – lovepower )
3/ Địa: Vật chất – sinh lý – Tình dục (Vitality – sexuaal power ).
Ba lực trung tâm của vũ trị cùng với 3 lực chính của “tiểu vũ trụ” liên hệ đến 7 Luân xa.
Luân xa (chakra) là những bánh xe điểm quan trọng trong xương sống chạy từ xương cùng lên đỉnh đầu con người thuộc dạng siêu linh (meta – being) chỉ cảm nhận được bằng siêu thực. Khi Luân xa mở, bánh xe điển lực quay phát ra hào quang ( Energy – năng lượng). Nói cách khác Luân xa là trung tâm điều chỉnh năng lượng sinh học và nuôi dưỡng con người với trường năng lượng vũ trụ (không âm không dương) “chảy ” vào cơ thể sẽ điều chỉnh năng lượng sinh học trong cơ thể giúp cơ thể đẩy lui bệnh tật và tăng sức đề kháng của cơ thể. Tâm lý học và tâm thể học quan niệm mỗi Luân xa liên quan đến một loại cảm xúc (esmotion) và sự vận hành của các tuyết nội tiết (glande endocrine) trong cơ thể
* Luân xa II – Êteric (L.xa thận thủy – kidnaey chkra) ký hiệu X, là trung tâm năng lượng sinh dục (énergie sexuelle) điều tiết phần lớn thủy dịch của cơ thể (tinh trùng, mồ hôi, máu, nước tiểu…). Các bệnh tương ứng của Luân xa này có TK tọa, đau lưng, đầu gối, tê liệt toàn thân, lạnh chân tay, trĩ…Luân xa này khai mở cong người làm chủ thủy đại và các giác quan, biết được cảnh trung giới (monde astral) – Tham + Sân + sỉ và các phiền não bị tiêu trừ.
* Luân xa III – Êteric mẫu (linh cốc cung – navel chkra) ký hiệu A – tương ứng SH.63 (Rốn – trung tâm năng lượng của đời sống con người) chủ trì mối liên quan giữa con người và môi trường. Người mở được Luân xa này làm chủ tọa hỏa đại và chi dày, đường ruột, tiểu đường ngộ độc, táo bóng…
2 Luân xa II và III ở tầng Hạ thừa được mở, con người mở rộng hiểu biết về phần địa giới kể cả tiểu và đại vũ trụ…Người mở được luân xa hạ tầng có cảm tưởng mình đã đắc đạo…
* Luân xa IV -……trung gian (trung thừa – heart chakra) Ký hiệu E – tưởng ứng SH.1 (Tím) điều khiển toàn bộ hoạt động của tim mạch; là trung tâm của tình thương và lòng nhân ái. Các bênh do Luân xa này chủ trì: tim mạch, tuần hoàn huyết dịch, u bướu, cao huyết áp…Ở tần trung thừa – Luân xa này mở, con người làm chủ phng đại, tùy ý bay lượn trong không gian hoặc nhập vào thân người khác; có đầy đủ đức tính của Chư thiên và tình thương vũ trụ, có đầy đủ đức tính của Chư thiên và tình thương vũ trụ; có thể liên hệ với Phật phước, tức thế giới siêu hình Trung Thiên, trực tiếp liên hệ đến cấp địa tiên – tức là giới chi phối việc trần gian.
* Luân xa V – kêteric (Huệ nhãn – third eye) ký hiệu C – tương ứng SH.106, liên quan đến hệ miễn dịch, hô hấp, âm thanh, tiếng nói; các bệnh về hầu họng, dị ứng thời tiết, cảm cúm…Luân xa V – là trung tâm của sự giao tiếp thông qua lời nói. Luân xa này mở Âm Dương hợp nhất. Huệ nhãn tượng trưng bằng hoa sen 2 cánh ( Âm Dương ) trông như con mắt có màu xanh – Liên hệ đến sự sáng suốt. Người mở được Luân xa này làm chủ được không gian, thân thể không thể hoại, trí tuệ thông suốt.
* Luân xa VI – kêteric (nê hươn cung – fontanel chakra) tương ứng SH.F – các bệnh tương ứng như cảm cúm, nhức đầu, viêm mũi, thần kinh mặt; các bệnh về mắt, hầu họng, rối loạn sinh lý, tiền mãn kinh…Luân xa VI là trung tâm của ý thức, liên quan đến tuyến niêm dịch (glande potuitaire), thu năng lượng vũ trụ, có khả năng vượt qua những khoảng cách thời gian và không gian. Mở được Luân xa này, con người hoàn toàn giải thoát, đạt phép thần thông (diddhi) và ba mươi hai phép phụ. Luân xa VI + Năng lượng vũ trụ liên quan việc học hành, trị bệnh, giao tiếp, thông tin và điều khiển…
* Luân xa VII………….(thiên môn – shira chkra) tương ứng SH.H – với các bệnh như đau đầu, loạn sắc, đau mắt,kính phong, tê liệt thần kinh, tai biến mạch máu não, dị ứng, các bệnh về tim mạch… Luân xa này mở hào quang bao phủ đỉnh đầu, nơi hỏa tam muội thông thiên – Âm Dương hợp nhất tạo ra sự sống; là trung tâm của sự hợp nhất giữa tiểu ngã và đại ngã; là nhịp cầu nối giữa đời sống vật chất vô thường với đời sống tâm linh vĩnh cửu. Luân xa này khai mở, con người có thể loại trừ được các thứ bệnh hoạn. Tác động vào Luân xa VII, dòng điện não Gamma trở lại bình thường 40 vòng quay/giây (Dòng điện não Gamma với chu kỳ 40 vòng quay/giây cho một trí não bình thường, còn dưới thông số trên thì sẽ phát sinh một số bệnh thaafnkinh như tâm thần phân liệt, thần kinh hoang tưởng…)
Ở tầng thượng thừa, người mở được 3 Luân xa V – VI – VII có khả năng phi thường, thần thông, liên hệ được với cõi Bắc Thiên.
Khi tác động bằng sức nóng của bật lửa, Luân xa rung động và thu hút được năng lượng vũ trụ. N L V T thông qua Cơ chết tự điều chỉnh chuyển được năng lượng sinh hoạt dự trừ của cơ thể đến các mô (cụm tế bào) và cơ, đồng thời trao đổi các dòng năng lượng giữa các Luân xa với nhau.
C/ Về Kinh Dịch: 6/9 Sinh huyệt thuộc 6 quẻ:
Bát quái thật ra chỉ có 6 quẻ ” Nhất âm nhất Dương chi vị Đạo” (Thoán từ truyện – KD) tức là vũ trụ dược tạo lập bở Âm và Dương. Âm dương thể hiện mọi hiện tượng và quy luật của vũ trụ. Càn khôn là 2 quẻ đầu mốt của tất cả sự biến dịch của vũ trụ – Con người là “tiểu vũ trụ”, Cho nên mọi sự biến dịch của vũ trụ đều có tác động ( trực tiếp hoặc gián tiếp) đến tiểu vũ trụ. Quẻ càn (Luân xa VII), quẻ khôn (Luân xa II), quẻ Ly (Luân xa IV), quẻ Khảm (Luân xa III).
* Quẻ càn: Luân xa VII tương ứng SH.H
* Quẻ Khôn (): Luân xa II tương ứng SH.X
* Quẻ Ly (): Luân xa IV tương ứng SH.E
* Quẻ Khảm (): Luân xa III tương ứng SH.A
* Quẻ Chấn (): Luân xa V tương ứng SH.C
* Quẻ Đoài (): Luân xa VI tương ứng SH.F
1Trong 6 quẻ, 4 quẻ chính (Càn – Khôn) + (Ly – Khảm) do 2 khí Âm Dương Tiên Thiên ( Càn – Khôn) và Hậu Thiên (Ly – Khảm) gặp nhau lập thành chữ Thập ( + ). Điểm gặp nhau này gọi là Thái cực – chỗ hợp nhất của Âm Dương còn gọi là điểm thái hòa: điểm “O”.
D/ Về Phản Chiếu Thần Kinh Đa Hệ:
Có 9 SH: 19 (X) – 63 (A) – E (1) – 106 (C) – 26 (F) – H (19) – 106 – 103 – 300.
Đặc điểm của Sinh huyệt:
* SH.19 tương ứng ký hiệu X: Điều hòa nhịp tim, thăng khí, hưng phấn tình dục, cường dương, tương ứng thần kinh giao cảm, liên hệ tim, phổi, dạ dày, ruột già…
*SH.63 tương ứng ký hiệu A: An thần, làm ấm vùng bụng, điều hòa nhu động ruột, hành khí, tăng lực, làm ấm cơ thể, cường dương, cột sống…
*SH.106 tương ứng ký hiệu C: An thần, điều hòa nhịp tim thông mũi, cầm mồ hôi. Sinh huyệt phản chiết tuyến vùng tùng – Tuyến tùng nằm giữa não bộ, được xem là tuyến bí ẩn nhất trong cơ thể con người – nơi trú ngụ của linh hồn hay huệ nhãn (con mắt thứ ba), giữ vai trò quan trọng về tuyến sinh dục và khai mở vô thức. Tuyến tùng vô cùng nhạy bén với ánh sáng, sản xuất 2 loại hormone là melatonin và seratonin quan trọng. Trong bóng tối lượng mertanin được tiết xuất rất cao và lượng seratonin rất thấp tạo ra sự thoải mái giữ thân và trí. Còn trong ánh sáng ban ngày lượng melatonin giảm và lượng saretonin tăng cao tạo ra sự hoạt động không ngừng. Đặc biệt khi seratonin ngưng sản xuất và đi đến tắt hẳn, con người chứng nghiệm được trạng thái càng lúc càng an bình hơn khi bước vào trạng thái ý thức cao hơn và có thể chứng nghiệm những cảm giác hạnh phúc vô biên bên trong và một ý niệm hòa đồng với vạn vật.
*SH.26: Tương ứng ký hiệu F (Tiểu não – cân bằng cơ thể + Tiền đình) An thần, trấn thống, điều hòa tim mạch, hạ nhiệt, hạ huyết áp, chống co thắt, ức chế tình dục, lợi tiểu, hành khí tiết dịch, giảm độc. Tuyến yên có chức năng như một trạm chuyển tiếp cho các xung lực xuất phát trong vùng hạm đồi (Hypothalamus) của não bộ. Từ đó chuyển các tín hiệu từ hạ đồi đến tất cả các tuyển nội tiết của cơ thể.
*SH.19: Tương ứng ký hiệu H (xem ký hiệu X phần trên).
*SH.103 Tăng cường trí nhớ, an thần, thăng khí…
*SH.300 Biểu hiện thần khí và tinh thần bổ nhân, làm hưng phấn tình dục, cường dương…
*Kết Luận: Phác đồ Quân Bình Năng Lượng Sinh Học được coi là chìa khóa của phương pháp có khả năng khai thông sự bế tắc của cơ thể do các chứng bệnh gây ra (kể cả suy nhược cơ thể và suy nhược thần kinh) hoặc do di chứng của thuốc và các phương pháp chữa bệnh khác. Với 7 chức năng, QUÂN BÌNH NĂNG LƯỢNG SINH HỌC trong cơ thể, đồng thời làm thay đổi về cơ bản phương pháp trị liệu của Diện Chẩn – Điều khiện liệu pháp(4)
Tạp chí ” Thế giới chúng ta” số 287/2007
HOÀNG CHU
(1) Các nhà sinh học và vật lý còn nghiên cứu chế tạo ra các loại máy như MAGNALIFE TN2001; Máy điện từ liệu pháp kiểu mới để cân bằng từ lực (Từ thông) của cơ thể với từ trường trái đất; máy cân bằng ion để cân bằng với ion (+) và ion (-) của cơ thể với các ion của khí quyển…Tuy nhiên các loại máy này không giúp cơ thể cân bằng tự nhiên, chỉ dừng lại ở việc chữa “ngọn” giống như các loại thuốc chữa bệnh thông thường và cũng không có tác động gì tới Cơ chế tự điều chỉnh của cơ thể.
(2) Xem bài “lửa: năng lượng đặt biệt chữa bệnh cho con người” – Hoàng Chu trong tạp chí “Thế giới trong ta” số 282/2007 và tập III.
* Ở đây cần hiểu thêm: Tác động bằng sức nóng của lửa và sự tác động từ bên ngoài gọi là “Trí hữu Sư” đủ sức đưa dòng điện năng lượng vũ trụ vào cơ thể.Còn trí từ Tâm phát ra (Tự giác ngộ) nhờ Thiền định – Trí này mời có công năng giải thoát sinh từ.
(3) Xoay tròn ngược chiều kim đồng hồ là “Quy luật hướng tâm của vạn vật trong vũ trụ” (Kể cả vũ trụ) – Xem giải thích:” giải mã trống Đông Sơn” – Hoàng Chu trong tạp chí ” thế giới trong ta ” số 258 + 259 tháng 6/2006 và tập III.
(3) Phản chiếu thần kinh đa hệ nhờ có “Chìa khóa” là phác đồ Quân Bình Năng Lượng Sinh Học, khiến các điều trị theo phác đồ (lấy Sinh huyệt trên mặt làm trọng tâm) không còn còn cần thiết nữa.
Nguồn: Hoàng Chu – DienChanViet.VN