Trong cuốn sách “Nguồn gốc loài người” Ts. Gn.Machisin viết “…không phải lao động mà ngôn ngữ và lửa đã đóng góp vai trò chủ yếu trong quá trình hình thành con người”.
– Lửa quan trọng đến như vậy sao?
Các nhà khoa học cho rằng có một số đột biến trong quá trình tiến hóa từ con người tiền sử khoảng 2,5 triệu năm trước “ăn lông ở lỗ”, sống theo bầy đàn, đi bằng 4 chân…để rồi “vụt dậy” đi bằng 2 chân.
– Phải chăng lửa đã đóng góp phần váo sự đột biến này?
Khi phát minh ra lửa, con người từ trong hang động chui ra thành từng nhóm để hái lượm, di chuyển từ vùng này sang vùng khác, tránh thiên tai, tìm nguồn thức ăn mới, chế tác công cụm, trông tỉa, săn bắt thú rừng… Đó được xem là bước nhau vọt trong quá trình tiến hóa của con người kéo dài cả triệu năm.
Tác giả OSAWA trong cuốn “Triết Âm Dương trong nghệ thuật trường sinh” viết: “Người cũng như các loài vật là một BIẾN THỂ CỦA THỨC ĂN”.
Việc người tiền sử phát minh ra lửa để làm chín thức ăn đã biến quá trình “Ăn sống nuốt tươi” của mình như các loài cầm thú được xem như một cuộc “lột xác” thành người.
Con người luôn vận động khiến năng lượng trong cơ thể bị tiêu hao (Kể cả khi tịnh tâm). Do đó sưởi ấm cơ thể là nhu cầu thường xuyên của con người trong quá trình tiến hóa; là “Liều thuốc” an thần giúp người tiền sử chống lại bệnh tật một cách hữu hiệu…
Theo nguyên lý siêu nhiên cấu trúc bản thể con người (Physical physiological structurer) thì ĐẤT + NƯỚC + GIÓ + LỬA là căn bản của cấu trúc đó. Lửa theo dịch lý: Dương (nóng), biểu trưng cho sự sống và tăng trưởng. Lửa trong tứ đại của vũ trụ là nguồn năng lượng vô tận, tự nhiên và tinh khiết. Lửa là năng lượng tự nhiên và tinh khiết khi kích thích vào cơ thể cũng gây ra phản ứng tự nhiên – phản ứng tự nhiên không làm mất cân bằng cơ thể, không độc hại, không gây phản ứng phụ như thuốc, điện, laze… Ví dụ những cản bệnh về tim mạch khi sung điện (điện châm) thường gây choáng cho bệnh nhân. Ngược lại dùng sức nóng của lửa kích thích các Sinh huyệt – đặc biệt 9 Sinh huyệt của phác đồ Quân bình năng lượng sinh học (Q B N L S H) không những không bị choáng, còn hạ nhiệt khi sốt cao (400C) và tăng nhiệt khi cảm lạnh (dưới 370C)… để cuối cùng thân nhiệt trở lại bình thường.
Phương pháp Phản Chiếu Thần Kinh Đa Hệ (PCTKĐH) còn gọi là “DIỆN CHẨN – ĐIỀu KHIỂN LIỆU PHÁP” dùng sức nóng của lửa để kích thích Sinh nguyệt và vùng phản chiếu của cơ thể đã được áp dụng rất có hiệu quả ngay từ những năm 1980 khi phương pháp ra đời. Việc dùng sức nóng của lửa để kích thích cho thấy kết quả cao hơn hẳn các hình thức sung điện và laze… Vì sao vậy? vì các máy tạo ra một làn sóng ngắn, sóng siêu âm, hoặc những dao động của dòng điện một chiều nhằm kích thích các mô, các cơ, tế bào nào đó để làm dịu cơn đau trong phạm vi đó thôi. Nói cách khác sung điện hoặc laze… thường dùng cho phương pháp chữa bệnh tại chỗ như Châm cứu, bấm huyệt, massage.. Có điều cần chú ý máy móc dù tinh xảo đến đâu cũng không tự nhiên và không thay thế đưuọc cho “điện” sinh học. Mặt khác chưa ai chứng minh có thể khi bị bệnh thì bệnh nào cần đưa điện hoặc laze vào cơ thể và đưa bao nhiêu thời gian là đủ?… Cho đến nay chưa có câu trả lời (!?).
Phương pháp PCTKĐH dùng thứ “Thuốc” tự nhiên (Lửa) của vũ trụ để chữ bệnh từ xa “đau nam chữa bắc” theo nguyên lý “tự điều chỉnh” trên hệ đồ hình không nhất thiết phải đặt ra những vấn đề như sung điện, sung laze hoặc cân bằng ion… – thứ “nguyên liệu” không tự nhiên.
Ví dụ” Đau thần kinh tọa (thần kinh hông to) chữa trên mặt + da đầu + bàn tay + trán; đau cổ gáy + vai chữa trên mặt + bàn chan; đau bụng + tiêu chảy + ói mửa gây kiệt sức chữa trên mặt + trán + da đầu + rốn…
Bạn sẽ hỏi: Có phải tất cả các chứng bệnh của con người đều được dùng sức nóng của lửa để tác động lên Sinh Huyệt hay còn sự tác động nào khác?
Xin thưa: Liệu pháp P C T K Đ H chữa bệnh từ gốc – nơi sinh ra bệnh chứ không chữa “ngọn” – nơi phát bệnh ra, không dùng thuốc, không dùng kim, không bắt mạch, không “bổ”, “tả” … như Đông y châm cứu cổ truyền. PCTKĐH dùng sức nóng của lửa và xoay tròn ngược chiều kim đồng hồ (1) bằng dụng cụ đặc chế của phương pháp để kích thích SH và vùng phản chiếu (VPC) nằm trên mặt da (2), ngoài ra còn một số hình thức tác động khác như gõ, day ấn, chà… Dùng sức nóng của lửa để kích thích tạo ra phản ứng nhanh giúp các Hệ miễn dịch, khả năng tự nhiên chữa bệnh của cơ thể và hoạt động của “nhà máy thốc kháng sinh” của cơ thể hoạt động tốt hơn (3).
Các nhà nghiên cứu và chữa bệnh bằng PCTKĐH Tp.Hồ Chí Mih cho biết dù dùng sức nóng của lửa kích thích Sinh Huyệt (Living point) trên đồ hình (Diagramme) kết quả rất cao. Đặc biệt khi được tác động bằng sức nóng của lửa vào SH của phác đồ Quân Bình Năng Lượng Sinh Học ( Q B N L S H ) trước tiên, người bệnh đều có cảm giác dễ chịu, sảng khoái hơn nhiều so với trước lúc chưa tác động. Thậm chí có những ca bệnh chỉ mới tác động xong phác đồ Q B N L S H, bệnh nhân hầu như dã tiêu biến. Đồ hình phản chiếu + Phác đồ Q B N L S H được xem là nơi thích hợp nhất để đưa sức nóng cửa lửa vào cơ thể. Nhiều ví dụ đã chứng minh bệnh nhân bị viêm khớp + thấp khớp; đau nửa đầu (migraine), DONA, răng lung lay, ù và chảy mủ lỗ tai; cảm lâu năm; gai cột sống; tiếng nói không rõ do di chứng từ tai biến mạch máu não và bại não; rụng tóc; thần kinh liên sường; thần kinh số 7, thiểu năng tuần hoàn não… đã điều trị ở bệnh viện Đông Tây y, uống nhiều thứ thuốc, sung cả điện, laze…bệnh vẫn kéo dài. Khi được điều trị tiếp bằng liệu pháp PCTKĐH, bệnh đã dứt.
– Phác đồ Q B N L S H có chức năng gì mà hiệu quả như vậy?
Phác đồ Q B N L S H gồm 9 Sinh huyệt (xem phác đồ trang 2) với 7 chức năng:
1/ Mở Luân xa (thiền) để cơ thể tiếp nhận năng lượng vũ trụ (NLVT) và tiếp cận với phần tâm trí (Tâm linh) mà các phương pháp chữa bệnh khác “bỏ quên”.
2/ Mở Sinh huyệt: Sinh huyệt là nơi tiếp nhận thông tin (Năng lượng Sinh học – NLSH) đầu tiên để Cơ chế tự điều chỉnh hoạt động:
3/ Điều hòa thân nhiệt (nóng quá 400C thành mát, lạnh dưới 370C thành ấm).
4/ Khai thông những bế tắc của cơ thể do suy nhược cơ thể và suy nhược thần kinh.
5/ Điều chỉnh sự rối loạn các tuyến nội tiết và huyết áp.
6/ Di chứng của thuốc và tiêu viêm tiêu độc.
7/ THAI GIÁO: Đây là phác đồ chăm sóc sức khỏe cho con người từ trong bào thai, đồng thời loại trừ được một số bệnh do gien di truyền như huyết áp, tiểu đường, thần kinh…
Vì vậy phác đồ Q B N L S H được gọi là CHÌA KHÓA(4) của phương pháp bao giờ cũng được sử dụng trước, sau đó mới chữa các bệnh cụ thể.
Có người hỏi: Thời gian tác động lên SH và Vùng phàn chiếu (VPC) bao lâu?
Xin thưa: trước khi hơ nóng dùng dầu cù là hoặc vaseline thoa lên các SH. Hơ các mặt da từ 1cm đến 1,5cm; thời gian 30 giây cho mỗi sinh huyệt, 60 giây cho VPC. Mỗi lần hơ bệnh nhân báo nóng hoặc nhúc nhích thì nhấc lên khoảng vài giây rồi hơ tiếp. Cứ như vậy hơ 3 đến 4 lần chuyển điểm khác. Nếu bệnh nhân cao tuổi, sức đề kháng kém…có thể hơ lặp lại lần thứ 2 hoặc 3.
Việc lập được phác đồ Q B N L S H là bước đột phá giúp liệu pháp P C T K Đ H “hóa giải” được Âm – Dương ( Hàn – Nhiệt ) trong cơ thể để chữa thành công một số ca bệnh khó như: mồ hôi toàn thân kéo dài nhiều năm gây suy tim, suy nhược cơ thể + suy nhược thần kinh, đau nửa đầu (Migraine), thiểu năng tuần hoàn não, đau bụng + tiêu chảy + ói mửa gây kiệt sức, mệt tim + khó thở… Sự đột phá này thành công phải nhờ Lửa – sức nóng của lửa.
Lửa giúp hình thành con người trong quá trình tiến hóa. Lửa cũng là món quà vô giá tạo hóa ban cho con người để con người tự chữa bệnh cho chính mình. Thế nhưng ân huệ này đã có lúc con người lãng quên – thật đáng trách. Dùng lửa để trị bệnh tức là con người đã biết quay về với bản thể, với tự nhiên. Đem cái “Tự nhiên” trời đất ban cho để tự cứu mình chắc chắn vạn sự tốt lành.
Xuân 2005
HOÀNG CHU
(Bài đăng trên tạp chí “thế giới trong ta” số 282/2007)
(1) Xoay tròn ngược chiều kim đồng hồ – Xem giải thích về “Giải mã trống Đông Sơn” (Phần 2) trên tạp chí “Thế giới trong ta” số 58 + 59 tháng 6/2006. Hiện tại chúng tôi điều trị bằng 2 hình thức tác động chủ yếu là hơ nóng và xoay tròn bằng que dò thủy tinh dầu tròn đường kính 5mm – 6mm. Việc thử nghiệm dùng quang điện và nhiệt điện thay đổi cho sức nóng của lửa, kết quả không như ý lại rất khó áp dụng lên mặt – trong khi Mặt lại là nơi tác động chính.
(2) Da theo y học hiện đại (Tây y) có quan hệ mật thiết với thần kinh.
(3) Trong các trị liệu tâm linh có 3 cơ chế khác nhau:
a/ Hiệu ứng METEREZA (hệ miễn dịch được kích thích)
b/ Tác dụng placebo (Giả dược chiếm 40% bệnh nhân)
c/ Khả năng tự chữa bệnh của cơ thế
* Thuốc ở đây được hiểu là Năng lượng sinh học trong cơ thể.
(4) Phương pháp đông y lấy BẮT MẠCH, Tây y lấy KHÁM BỆNH làm chìa khóa
KỸ THUẬT SỬ DỤNG NHIỆT (ĐIẾU NGẢI CỨU) TÁC ĐỘNG VÔ HUYỆT HOẶC VÙNG THEO PP DIỆN CHẨN
Hơ là một trong những kỹ thuật căn bản của phương pháp Diện Chẩn. Ta chủ yếu dùng Điếu ngải cứu (hay nhang ngải cứu) hay bất cứ vật nào tỏa nhiệt như thuốc lá, nhang loại lớn khi không có điếu ngải cứu, máy sấy tóc… tuy nhiên hiệu quả sẽ kém hơn vì không đủ độ nóng.
Sau khi đốt cho cháy đỏ ở đầu điếu ngải cứu (không để cháy ra ngọn lửa) ta cầm điếu ngải cứu bằng 3 ngón tay cái, trỏ và giữa. Lòng bàn tay hơi ngửa ra, và dùng ngón út tì lên mặt da làm
điểm tựa, để đầu nóng đỏ cách da khoảng 1-2 cm, di chuyển trên
vùng da. Có 3 cách hơ là hơ nóng, hơ ấm và hơ tìm sinh huyệt.
1. Hơ nóng: ta di chuyển nguồn nhiệt chậm trên mặt da cho đến khi có cảm giác nóng nhiều thì nhấc ra, có thể lặp lại 3 lần và di chuyển ra vùng khác cần hơ.
Tác dụng: làm ấm nóng, trừ hàn tà nhập lý, co mạch, làm chắc khỏe gân cơ, giảm đau mạnh, lưu thông khí huyết mạnh, làm khô, mau lành vết thương, tan máu bầm, giảm sưng, tiêu viêm tiêu độc như: côn trùng cắn, mụn nhọt mủ, lở loét, bong gân, chấn thương phần mềm…
2. Hơ ấm: ta di chuyển nguồn nhiệt nhanh với khoảng cách vừa phải trên da tạo cảm giác ấm áp.
Tác dụng: làm ấm, giải hàn, giãn mạch, giãn cơ, giảm đau, lưu thông khí huyết…
3. Hơ tìm sinh huyệt: dùng nhang ngải cứu (hoặc cây ngải cứu pin) di chuyển rất chậm tới lui cách bề mặt da từ 1-2 cm, nếu thấy điểm có cảm giác nóng buốt hơn những vùng xung quanh, thì đó chính là sinh huyệt. Ta hơ nóng sinh huyệt đó 3 lần cách khoảng, bằng cách, khi có cảm giác nóng buốt nhấc điếu ngải cứu lên cho bớt nóng (khỏi tầm hút nhiệt của Sinh huyệt), rồi lại hơ lặp lại thêm khoảng 2 lần nữa và chuyển qua vùng cần hơ khác.
Tác dụng: để tìm sinh huyệt Diện Chẩn phục vụ cho việc điều trị bệnh.
Trên thực tế, ta dùng một cách hoặc phối hợp cả 3 cách linh động để đạt hiệu quả cao nhất.
Lưu ý: cẩn thận khi hơ trong các trường hợp người bệnh bị tâm thần, tai biến, tiểu đường, tổn thương thần kinh, tủy sống… vì người bệnh có thể bị rối loạn cảm giác nên nhận thức về nhiệt không rõ ràng và chính xác nên dễ bị phỏng. Để an toàn hơn, ta có thể thay thế hơ bằng máy sấy tóc cho các trường hợp này. Chỉ nên dùng cách này mỗi ngày một lần, nếu dùng nhiều lần hơn cần có sự trao đổi ý kiến hay giám sát của các thày thuốc, hay học viên có kinh nghiệm trong Diện Chẩn. Vì cách này dù có hiệu quả cao, nhưng nếu lạm dụng, sẽ có thể bị sinh ra nổi nhọt. nhức đầu, mất ngủ, táo bón…Nếu gặp trường hợp này, nên dùng các loại thức ăn mát để giải trừ như nước dừa, rau má, bột sắn. Hay có thể ấn bộ huyệt Làm mát, giải nhiệt (26, 3, 143, 51, 14, 15, 16).
FB: Dụng Cụ Diện Chẩn